Mẹ nó kể ngày xưa, ngày dì Xuân sanh anh Năm Liên con út của dì thì ông ngoại nó bỏ đời về miền xa lăng lắc, dì vì thương ngoại mà khóc suốt thời gian ở cữ, khi ra ngoài thì hởi ôi, đôi mắt dì không còn ánh sáng, cuộc sống với mọi người thì thênh thang, nhưng với dì nó từ đó đóng khung cuốn phim ánh sáng kí ức. Nhà dì Xuân năm ấy có ba người thôi, gồm hai vợ chồng dì với anh Năm Liên. Mỗi lần về thăm, dì thường bảo ba mẹ cho thằng Ân ở lại chơi với dì ít nhất hai hôm, thứ bảy Chúa nhật, còn mùa hè thì thôi mút chỉ đường tà. Tha hồ bắt chim, hái quả. Nhất là mùa hè tiếng ve ra rả, con nắng oi nồng, hai anh em mồ hôi nhễ nhại, lội suốt ngoài vườn bắt ve bằng mủ mít gắn trên đầu cây trúc, những chú ve say sưa ca hát inh cả tai, các cu cậu sè sẹ dí đầu cây trúc có mủ mít vào đôi cánh trong suốt như gương, các chị ve sầu tịt ngòi vẫy cánh vô vọng, đến khi bỏ vào bao ni lông rồi mà cũng còn rèn rẹt nhất quyết thoát ra, gớm ghê thật cho cái bất khuất nhà ve. Buổi trưa bắt ve, buổi chiều đá cỏ gà, hai anh em nhà thằng Ân ăn thua đủ với trẻ con trong xóm như anh Nhân, con Phòng, thằng Ba, anh Năm Liên cộc tính lắm, hễ ăn thì thôi cười tươi như hoa rứa chớ gà gãy cánh thì coi chừng đừng có mà cười đểu, ăn dộng ngay tức khắc. Nên bọn trẻ con ở xóm nhà dì nó rất ngán thằng Ân bởi vì nó là em của anh Năm Liên, nhờ vậy hắn có dịp ngông nghênh nên hắn thích về nhà dì chơi cũng là điều dễ hiểu. Bắt ve, đá cỏ gà chán, nó chạy về sà vào lòng dì Xuân để được dì âu yếm, gải lưng, xoa đầu, thích nhất dì vừa xoa vừa nói" cha tổ mi nờ, nóng sôi sôi ri tê". Dì Xuân tuy không thấy đường nhưng dì làm hết mọi việc trong nhà, từ cơm nước, rau heo cám chó cho đến quét tước trong nhà ngoài sân dì làm gọn ơi là gọn, trời mùa nắng, ngoài sân nắng chang chang nhưng bước vô ngôi nhà tranh vách đất, nền nhà sạch bong, cho ta cảm giác mát rượi. Ở phía cửa sau chổ bếp bước ra có hai cái ảng đất xanh rêu, nước trong thấy tận đáy ảng phản chiếu khoảng trời phía ngoài giọt tranh xanh màu thiên thanh. Phía ngoài hai cái ảng cách khoảng 5-10m có chuồng heo với chuồng gà, phía trên chuồng gà lúc nào cũng có tổ ong vò vẽ, chô cha, ong vò vẽ mà chọn con ong chàng đúc bánh xèo thì thôi rồi hết sảy. Mỗi lần dượng Xuân lấy ong cũng không kém phần hấp dẫn, thường thì đốt ong vào buổi tối, dượng lấy cây sặt khô bó lại thành một bó tròn tầm bằng nắm tay, bó thật chặt để khỏi cháy lớn, chủ yếu khói nhiều hơn, buổi tối ong vào trong tổ hết, ở cửa tổ chỉ có một hai con làm nhiệm vụ canh cổng, dượng đốt bó sặt khi có lửa ngọn hoe hoe với khói, nhẹ nhàng di ngọn đuốc trước cửa tổ, đàng ong nghe có biến lần lượt bò ra nhưng vừa khỏi miệng tổ thì cháy cánh rơi xuống đất, cứ như vậy đến khi không còn con ong nào bay ra nữa mới thôi, rồi nhẹ nhàng bê tổ ong to bằng vành nón lá xuống đặt vào giữa cái nia dì Xuân chuẩn bị sẵn. Dùng tay bóp nhẹ lớp vỏ lốm đốm, loang lổ màu áo cảnh sát dã chiến, bên trong có mấy tầng, mỗi tầng được kết nối rất nhiều cái lỗ sâu bằng đầu mút đũa con, ong con nằm trong cái lỗ ấy, chỉ cần ngắt hết lớp màng mỏng trên đầu rồi nắm lấy tầng rung nhẹ, các chú ong con trắng phau thi nhau rơi ra, nhặt cho vào bát to đem đúc bánh xèo thơm ngon phải biết. Khi dì Xuân đúc bánh xèo dì luôn cho thằng Ân ăn những cái bánh đầu tiên, ngon ơi là ngon, mùi thơm của dầu phộng, của bột gạo, mùi béo ngậy của con ong, của lá nén cứ còn lưu lại nơi đầu lưỡi kể cả trong giấc mơ, ngon lắm. Những đêm mưa nằm khoanh trong lòng dì nghe dì kế chuyện ngày xưa, ngày dì Xuân với mẹ nó còn nhỏ ở nhà ông bà ngoại. Dì kể từ mùa nắng cho chí mùa mưa hai chị em không lúc ngơi tay, hết dưới ruộng lại lên nương, tối lại chong đèn chằm nón, dì bảo ông ngoại dạy con gái phải đảm đang việc nhà để chồng lo đại sự. Quả thật đến khi tật nguyền dì cũng không ngừng nghỉ. Có lẽ tại khoảng thời gian tiếp cận ánh sáng quá ít ỏi nên dì thường nói chuyện về ngày xưa chăng, có lẽ là vậy nên những đêm thằng Ân được về quê ngoại ngủ trong lòng dì, lắng nghe giọng kể đều đều như rì rầm về những ngày xưa yêu dấu cũ của dì với mẹ tựa như bài kinh nguyện cầu cho ngày xanh sống dậy. Đến khi ngủ say từ lúc nào không biết. Dì Xuân không thấy đường thế nhưng bất cứ một thứ lá cây gì ngoài vườn thằng Ân hái đem vào đưa gì cầm trên tay dì nói trúng phóc, trường hợp này thì đôi tay kiêm luôn chức năng nhãn quan. Đây cũng là điều rất lạ ở những người khiếm thị.
Những buổi sáng tờ mờ gà gáy râm ran, thằng Ân tụt xuống giường chạy theo ông dượng ra đồng thu ống trúm bắt lương, dở những cái đó khi đầu hôm dượng đặt ở ngõ nước ruộng trên chảy xuống ruộng dưới để tóm những anh chàng cá tràu, cá nhét, cá rô, cá trê ham ngao du chơi nhởi mang về trống vào nồi đồng to ở trong góc bếp để ăn dần, nhất là cá tràu cỏ nướng dầm mắm gừng mà ăn cơm thì ngon hết biết. Ở những đám ruộng của dì trên cánh đồng hẹp chảy xuôi về cầu Ông Thìn, dượng Xuân đào mấy cái đìa nhỏ làm nơi cho cá ở, trên bờ đìa trồng những cây dứa, dượng chặt cây trong vườn thả xuống đìa tạo bóng mát cho cá ở, gọi là thả chà, đêm mùa mưa, nước trắng đồng bất chợt nhìn những cây dứa in trên nền trời mờ ảo như những bóng ma thiệt dễ sợ, những bóng ma dứa này thi thoảng hiện về trong giấc mơ làm thằng Ân giật mình khóc thét, dì Xuân ôm nó vào lòng dỗ dành "nín, cha tổ mi nờ chạy nhảy suốt ngày rồi tối nằm mơ ".
Tuổi thơ yêu dấu bình lặng trôi mang theo những ngày quê ngoại đáng yêu, cuộc sống có bao giờ đứng yên, thằng Ân lớn lên lăn lóc vào đời mãi miết chống chọi cuộc mưu sinh, một chiều kia nghe tin dì Xuân về miền vĩnh cửu, thằng Ân lặn lội tìm về quê ngoại tiễn người dì kính yêu bước chân vào lạc quốc. Cảnh quan chừ xa lạ, chỉ có cái đìa với những cây dứa vẫn còn nguyên, mộ dì ở cánh rừng phía bên kia cánh đồng hẹp, cánh rừng mọc đầy những bụi sim, bụi mua, bụi móc, lại đúng mùa trổ hoa, cả cánh rừng nở bung một màu tím ngát, màu tím của ngày xưa. Ngày cu Ân lon ton theo mẹ về quê ngoại.
Tân Bình 15-8-2017
0 nhận xét:
Đăng nhận xét