Có lần tôi thắc mắc hỏi ba tôi tại răng gọi là con trâu sinh hở ba, ông trả lời vì là trâu cái lại biết đẻ con nên gọi là sinh. Tôi lại hỏi chớ con sinh nhà chú sáu có con nghé đẹp kinh mà con sinh nhà mình không có, nó dở ẹc ba hỉ. Ông trả lời tại mẹ không có tay nuôi trâu nái. Tôi không hiểu tại sao lại liên quan đến mẹ, dường như có điều gì kì bí. Con sinh mập ù đen láng, cặp sừng nó cong vút, đang chăm chỉ gặm cỏ thi thoảng nó đưa lưỡi khèo vài cây lúa, mắt nó liếc về phía chị như sợ bắt quả tang. Đến lúc lúa khoe màu, ruộng luôn cạn, nước chỉ còn lại trong những dấu chân người thợ cấy, trong những dấu chân ấy luôn có cá, cá tràu, cá trê, cá rô. Những chú cá quẫy đuôi nghe rèn rẹt đâu đó. Nhớ lần rủ thằng Tình con nhà chú tôi, vạch lúa lội ruộng bắt cá, vừa sờ tay vào dấu chân, vớ phải cụ trê vàng rùm to bự, nó vùng vẩy đâm ngạnh vao tay đau buốt. Thằng Tình hỏi: Cá chi rứa anh năm. Tôi nói cá trê. Nó nói không phải cá trê, cá tru chớ, mắt nó láu lỉnh nhìn tôi. Tôi nói đã nói cá trê mà mày không hiểu. Nó nói cá tru vì đau quá nên anh chu mỏ tru đó rừa. Đầu tôi bốc hoả nóng như hoả diêm sơn, tôi điên tiết lao vào nó, hai anh em vật lộn ì xèo đến khi tôi đè nó xuống dưới dùng khỉu tay chận ngang ngực, tôi hỏi: thua chưa, nó bất đắc dĩ gật đầu. Vừa lúc ấy có tiếng e hèm phía sau, ngoảnh lại thấy ba tôi, mắt trợn ngược tay cầm roi nhịp nhịp, mỗi đứa bắt được hai roi quắn đít. Thằng tình vừa đi vừa nói: may quá anh năm hè, nhờ lớp bùn bảo hộ chớ không chết chắt.
Cá đồng mẹ bắt vào mùa lúa khoe màu, đem về nướng vàng trên lửa than rồi mẹ kho với tương bánh dầu, cho thêm lá gừng cắt nhỏ khoảng bằng lóng tay, ăn thơm ngậy ngon không chê vào đâu được. Mẹ bảo cá đồng ăn màu lúa thịt mới ngon. Đúng thế, những mùa khác ăn nghe lãng xẹt không ngon chút nào. Những buổi trưa đi lễ nhà thờ về ngang chân cấm Gò Kia, mình cùng chị bốn Thời hái lá xoa xoa đem về bỏ vào cối đá giã nhuyễn rồi vắt lấy thứ nước xanh lè cho thêm đường cát vào khuấy đều, đổ ra bát để 5-10 phút, chất nước xanh ấy đông kết lại, lấy muỗng xắn từng lát ăn nghe mát lạnh ngọt ngon hết sảy, tôi xếp món đó vào hàng ngon nhất thế gian. Những buổi trưa ông ba ngủ say mình rón rén tụt xuống giường khèo chú Ái, thế là cu cậu vù xuống con sông trầu trong xanh như dải lụa vắt uốn éo qua làng tha hồ ngụp lặn cảm giác mát đến từng đường gân thớ thịt. Một hôm tắm xong lên bờ mình ngịch ngợm dùng đá ném tổ ong vò vẽ to bằng trái banh rồi bỏ chạy. Đàn ong túa ra vây chú Ái tấn công, chú chạy lúp xúp đằng sau miệng la oai oái. Chú vốn ốm yếu bỗng dưng mập ù, sợ ba đánh mình dắt chú Ái giấu ở nhà thờ rồi đi bức măng vòi nhai nhỏ đắp lên vết ong cắn, thế mà hay phải vào hạng lương y đại tài. Chiều chú ốm lại như xưa, khoẻ re hết lo bị đòn. Đám giỗ ngoại, mẹ dắt qua những rừng sim thoai thoải xung quanh rừng sim tím thẫm ấy là những ruộng mía tít mù, gió thổi dập dờn mang theo mùi che hai thơm ngào ngạt toả ra từ những lò đường đâu đó. Bầu trời với nhũng cột khói xám xịt to đùng bò ngoằn ngoèo vào không gian trông giống những con quái vật khổng lồ thời tiền sử. Khi về thế nào cậu cả cũng bảo chị chín Ny đốn cho vài bó mía nhỏ tròn. Anh năm Liên con dì Xuân, hào phóng cho chiếc lồng bên trong có con chim nhảy nhót. Từ đó con chim trở thành bạn thân của ba anh em. Ban đêm út Nhân thường bỏ lồng vào màng ngủ, út bảo sợ mèo ăn mất chim. Ngày nọ ông ba vô tình giẫm phải con vật chết tươi, ba a em sững sờ như vừa đánh mất vật quí giá nhất trên đời rồi lặng lẽ sụt sùi đưa người bạn nhỏ ra vườn chôn cất cẩn thận. Liên tiếp những chiều vàng sau đó, chú Ái cứ thẩn thờ ngồi bên nấm đất tiếc nuối xót xa.
Chiều nay rỗi việc ngồi chép lại những dòng nầy mà hoài niệm cũ tràn về như cơn lũ mùa đông.
Cá đồng mẹ bắt vào mùa lúa khoe màu, đem về nướng vàng trên lửa than rồi mẹ kho với tương bánh dầu, cho thêm lá gừng cắt nhỏ khoảng bằng lóng tay, ăn thơm ngậy ngon không chê vào đâu được. Mẹ bảo cá đồng ăn màu lúa thịt mới ngon. Đúng thế, những mùa khác ăn nghe lãng xẹt không ngon chút nào. Những buổi trưa đi lễ nhà thờ về ngang chân cấm Gò Kia, mình cùng chị bốn Thời hái lá xoa xoa đem về bỏ vào cối đá giã nhuyễn rồi vắt lấy thứ nước xanh lè cho thêm đường cát vào khuấy đều, đổ ra bát để 5-10 phút, chất nước xanh ấy đông kết lại, lấy muỗng xắn từng lát ăn nghe mát lạnh ngọt ngon hết sảy, tôi xếp món đó vào hàng ngon nhất thế gian. Những buổi trưa ông ba ngủ say mình rón rén tụt xuống giường khèo chú Ái, thế là cu cậu vù xuống con sông trầu trong xanh như dải lụa vắt uốn éo qua làng tha hồ ngụp lặn cảm giác mát đến từng đường gân thớ thịt. Một hôm tắm xong lên bờ mình ngịch ngợm dùng đá ném tổ ong vò vẽ to bằng trái banh rồi bỏ chạy. Đàn ong túa ra vây chú Ái tấn công, chú chạy lúp xúp đằng sau miệng la oai oái. Chú vốn ốm yếu bỗng dưng mập ù, sợ ba đánh mình dắt chú Ái giấu ở nhà thờ rồi đi bức măng vòi nhai nhỏ đắp lên vết ong cắn, thế mà hay phải vào hạng lương y đại tài. Chiều chú ốm lại như xưa, khoẻ re hết lo bị đòn. Đám giỗ ngoại, mẹ dắt qua những rừng sim thoai thoải xung quanh rừng sim tím thẫm ấy là những ruộng mía tít mù, gió thổi dập dờn mang theo mùi che hai thơm ngào ngạt toả ra từ những lò đường đâu đó. Bầu trời với nhũng cột khói xám xịt to đùng bò ngoằn ngoèo vào không gian trông giống những con quái vật khổng lồ thời tiền sử. Khi về thế nào cậu cả cũng bảo chị chín Ny đốn cho vài bó mía nhỏ tròn. Anh năm Liên con dì Xuân, hào phóng cho chiếc lồng bên trong có con chim nhảy nhót. Từ đó con chim trở thành bạn thân của ba anh em. Ban đêm út Nhân thường bỏ lồng vào màng ngủ, út bảo sợ mèo ăn mất chim. Ngày nọ ông ba vô tình giẫm phải con vật chết tươi, ba a em sững sờ như vừa đánh mất vật quí giá nhất trên đời rồi lặng lẽ sụt sùi đưa người bạn nhỏ ra vườn chôn cất cẩn thận. Liên tiếp những chiều vàng sau đó, chú Ái cứ thẩn thờ ngồi bên nấm đất tiếc nuối xót xa.
Chiều nay rỗi việc ngồi chép lại những dòng nầy mà hoài niệm cũ tràn về như cơn lũ mùa đông.
Long an chiều 19-8-2015
0 nhận xét:
Đăng nhận xét