Thuở ấy chưa có sự tàn phá môi trường từ bàn tay con người nên rừng như nguyên sơ. Buổi sáng sớm, con đường lấm tấm dấu những giọt sương rơi, dấu chân ông ba mươi đi kiếm ăn khi đêm hãy còn mới rợi. Nó hốt hoảng níu chặt áo mẹ vì sơ ông ba mươi còn rập rình đâu đó. Cuối cánh rừng thứ nhất qua con suối đã hiện ra lũy tre xanh rì, thân tre vàng óng, ngọn tre cong như gọng vó, đu đưa những tổ chim dồn dột với lủ chim non chuyền cành kêu ríu rít. Làng Sơn Lộc những mái nhà im ắng, mơ màng. Nắng ban mai phủ lên ngôi làng một màu vàng óng ả, nơi ấy có một ngôi nhà củ kỷ mà mỗi lần về ngoại mẹ nó thường ghé thăm. Mẹ bảo nhà cô Tiên. Cô Tiên làm nghề bà mụ (đỡ đẻ). Một bà tiên thật sự của những đứa trẻ sơ sinh. Mẹ kể, từ chị hai thằng Ân đến em út nó đều một tay cô Tiên đỡ hết .
Cô Tiên dáng người thấp, đậm, mặt mày hiền từ tính tình vui vẻ. Cô thường âu yếm hái cho nó những chùm dủ dẻ sực nức hương thơm ở vạt rừng sau hè. Mẹ hay biếu cô quà quê như cân thị đề, chùm bánh ú, con gà mái tơ… mỗi lần ghé thăm sau cuộc chuyện trò thân mật, khi ra về cô Tiên thường đưa chân hai mẹ con một khoảng khá xa. Mẹ thường dặn dò thằng Ân:
- Các con phải ghi nhớ, cô Tiên là người mẹ thứ hai của các con.
Leo lên con đường dốc mòn và hẹp vượt qua ngọn đồi thấp, chân đồi bên kia là vườn nhà ngoại nó. Lưng chừng đồi nhìn xuống, bếp nhà ngoại vươn lên những sợi khói ngoằn ngoèo bò vào không gian mang theo hương thơm xôi nếp hương bầu, dấu hiệu buổi làm cỗ kỹ niệm ngày ngoại nó bỏ đời đi đâu vĩnh viễn. Biết chị Sáu về, cậu Bảy lên tận lưng đồi bế nó lên vỗ về, âu yếm:
- Cháu yêu của cậu!
Một tay bế cháu một tay xách đồ cho chị, hai chị em đưa nhau về lại nơi tuổi thơ chị em bên nhau chơi trò trốn kiếm. Trong ngôi nhà ba gian của ngoại, ở gian cuối có căn buồn kín cửa, mẹ bảo căn buồn bà ngoại xưa. Thằng Ân đinh ninh rằng chính trong căn buồn này, chị hai nó, đứa con so của mẹ ra đời trong vòng tay yêu thương của ngoại. Ngay gian giữa kê dãy bàn nghi ngút hương khói, trên mặt bàn bày biện đủ thứ thức ăn, cậu cả áo dài khăn đóng lâm râm khấn vái, xì xụp lạy.
Bữa tiệc bắt đầu với đông đủ cháu con nội ngoại, cười nói râm ran. Cậu Cả dọn riêng cho mẹ mâm không cúng ở đầu hồi (vì biết chị là người theo đạo Chúa), cậu Bảy đặt trước mẹ một đĩa lớn cá đồng dầm mắm gừng. Biết chị thích cá đồng nên năm nào cũng vậy, trước ngày giỗ cậu tát đìa chọn những con cá tràu, cá rô cụ dành riêng cho chị, cậu đứng kế bên săn sóc lúc mẹ dùng bữa, ánh nhìn cậu chan chứa yêu thương. Nhớ về quê ngoại, thằng Ân nhớ một vùng kỷ niệm mênh mang không đầu không cuối…
Và giờ đây nó quay lại với dòng suy tư hiện tại, ngày thằng Ân đã lớn, trốn học về thăm cậu.
Vườn ngoại nó xưa, bây giờ chỉ còn căn nhà nhỏ, nó bước lên cái sân gạch cũ xanh rêu, đứng dưới gốc mai già, nó cất tiếng gọi:
- Cậu ơi!
Có tiếng cựa mình trên chiếc chõng tre, tiếng dép lê loẹt quẹt trên nền nhà, cậu chậm chạp bước ra, tay cậu cầm quạt mo nan phe phẩy. Đưa chiếc quạt nghiêng nghiêng che ánh nắng buổi chiều, nheo nheo đôi mắt già nua cậu kêu lên mừng rỡ:
- Bà ơi! Thằng Ân con cô sáu về đây nề, bà coi bắt mấy con cá tràu tôi tát đìa hôm qua kho cho nó ăn với. Tội nghiệp nắng nôi ri mà cũng lội về thăm cậu.
Thằng Ân bước vô ngôi nhà mái tranh vách đất, cảm giác mát mẻ lạ thường. Dưới gầm bàn, con vện lười biếng vẫy đuôi ra chiều mừng rỡ, đầu gát lên hai chân trước, mắt lim dim ngủ, trên đỉnh bức tường, con mèo muôn kêu meo meo, nó dương đôi mắt xanh màu ngọc thạch láo liên tìm lũ chuột.
Cậu cầm quai chiếc ấm nhôm rót ra bát sứ một bát nước chè xanh đưa cho nó, nói:
- Uống đỡ khát đi con.
Mợ bảy ân cần nhắc nhở:
- Ra sau rửa mặt cho mát đi con.
Thằng Ân xuống bếp ra phía đầu hồi, ở đó có chiếc ảng rêu phong từ thời ngoại nó để lại được đặt dưới giàn hoa lý trắng những bông lấp ló lẫn vào khóm lá xanh rì. Mỗi lần thò cái cán gáo mo cau vào múc nước, thằng Ân nhìn thấy gương mặt nó với khoảng trời xanh dưới đáy ảng vỡ tan ra từng mảng, đổ nước từ gáo ra bàn tay chụm lại, vỗ vỗ lên da mặt nghe thật sảng khoái, cái sảng khoái chỉ ở miền quê mới có được.
Phía cuối khu vườn nơi tiếp̉ giáp mảnh rừng có cái hang nằm dưới tảng đá lớn, cái hang nầy nước chảy quanh năm. Cậu gọi cái hang Cọp, cậu nói lúc cậu còn nhỏ thường nhìn thấy cọp mẹ, cọp con về uống nước ở đây nên gọi là hang Cọp. Thằng Ân nhìn lên lối mòn con đường rừng, lối về nhà ngoại năm xưa, nó nhớ lại thời tóc còn để chỏm níu áo mẹ về đám giỗ ngoại. Nó tưởng tượng ông nó râu tóc bạc phơ, giống ông tiên trong truyện cổ tích. Ông cho nó một đồng xu nhỏ, chỉ một đồng thôi thằng Ân tha hồ ăn kẹo chanh, kẹo ú nhà bà Trại quanh năm. Cái hang cọp gợi cho thằng Ân nhớ lại chuyện buồn ngày còn sống mẹ thường kể cho nó nghe, chuyện nhà cậu Cả.
Cậu cả thằng Ân sinh hạ năm người con, ba trai hai gái, thời chiến tranh chị Tám, chị Chín còn nhỏ, anh cả Sanh đi lính nghĩa quân, anh hai Mậu đi lính thiết vận xa, anh ba Sắc thấp người, tính tình hiền lành, ít nói, theo Việt Minh. Thật đau xót cho cậu tôi, một vai cậu gánh hai giới tuyến.
Ngày xưa mỗi lần giỗ ngoại, các anh hẹn gặp nhau ngoài rừng chỗ phía sau cái hang cọp. Anh cả, anh hai đùm đồ ăn thức uống ra rừng gặp anh ba Sắc, hôm ấy hình như đàm phán điều gì tối quan trọng nhưng bất thành, lúc về ai cũng nhìn thấy đôi mắt đỏ gay trên gương mặt buồn thiu của hai anh nó.
Sau đó ít hôm, hình như năm 72 thì phải. Ừ, đúng rồi mùa hè đỏ lửa 72, cũng vào lúc nhá nhem tối, anh ba Sắc trên đường công vụ đã lọt vào ổ phục kích của đơn vị anh cả. Súng nổ liên hồi làm anh cả tím người ngã lăn ra bất tỉnh. Từ đó huynh đệ đôi ngã biệt ly. Từ đó bên nhà cậu Cả có thêm một cái giỗ. Anh cả Sanh, anh hai Mậu càng ngày càng lầm lì ít nói. Rồi lần lượt anh cả, anh hai trốn lính phiêu bạt, cậu Cả phải trình diện trưởng khu dồn mỗi sáng thứ hai đầu tuần, cho đến ngày giải phóng.
Có tiếng mợ nó gọi:
- Ân ơi vào ăn cơm chiều con.
Nó vào nhà nhìn trên chiếc chõng tre một mâm gỗ cũ kỷ, giữa mâm có chiếc rế, trên đó có cái trả đất nghi ngút khói, mùi lá gừng với tương bánh dầu kho cá tràu xông lên thơm điếc mũi, những khúc cá màu nâu sẫm, xâm xấp nước, một thứ nước sền sệt trông mới ngon lành làm sao. Cậu mợ nó mỗi người một bên, thay nhau bới cơm, gắp cá bỏ vào bát nó như săn sóc đứa con độc nhất đi xa mới về. Thằng Ân nghe lòng cảm động, nước mắt chực trào ra, nó ăn liền một mạch ba bát cơm với cá. Cậu bảy nắm tay nó dắt ra sân, ngồi bên chiếc bàn con dưới gốc mai già, hai cậu cháu uống nước chè xanh.
Mặt trời khuất sau núi Bằng Thùng hắt lên nền trời ráng chiều đỏ rực, lưng chừng núi từng khóm mây trắng lãng đãng ̀ trôi vô định. Đôi mắt cậu buồn xa xăm nhìn ánh chiều tàn rơi trên quê ngoại. Thằng Ân chợt nhận ra hoàng hôn về tắt nắng và cậu hắn cũng đã già nua.
Hắn thấy thương cậu mợ vô bờ!
Cô Tiên dáng người thấp, đậm, mặt mày hiền từ tính tình vui vẻ. Cô thường âu yếm hái cho nó những chùm dủ dẻ sực nức hương thơm ở vạt rừng sau hè. Mẹ hay biếu cô quà quê như cân thị đề, chùm bánh ú, con gà mái tơ… mỗi lần ghé thăm sau cuộc chuyện trò thân mật, khi ra về cô Tiên thường đưa chân hai mẹ con một khoảng khá xa. Mẹ thường dặn dò thằng Ân:
- Các con phải ghi nhớ, cô Tiên là người mẹ thứ hai của các con.
Leo lên con đường dốc mòn và hẹp vượt qua ngọn đồi thấp, chân đồi bên kia là vườn nhà ngoại nó. Lưng chừng đồi nhìn xuống, bếp nhà ngoại vươn lên những sợi khói ngoằn ngoèo bò vào không gian mang theo hương thơm xôi nếp hương bầu, dấu hiệu buổi làm cỗ kỹ niệm ngày ngoại nó bỏ đời đi đâu vĩnh viễn. Biết chị Sáu về, cậu Bảy lên tận lưng đồi bế nó lên vỗ về, âu yếm:
- Cháu yêu của cậu!
Một tay bế cháu một tay xách đồ cho chị, hai chị em đưa nhau về lại nơi tuổi thơ chị em bên nhau chơi trò trốn kiếm. Trong ngôi nhà ba gian của ngoại, ở gian cuối có căn buồn kín cửa, mẹ bảo căn buồn bà ngoại xưa. Thằng Ân đinh ninh rằng chính trong căn buồn này, chị hai nó, đứa con so của mẹ ra đời trong vòng tay yêu thương của ngoại. Ngay gian giữa kê dãy bàn nghi ngút hương khói, trên mặt bàn bày biện đủ thứ thức ăn, cậu cả áo dài khăn đóng lâm râm khấn vái, xì xụp lạy.
Bữa tiệc bắt đầu với đông đủ cháu con nội ngoại, cười nói râm ran. Cậu Cả dọn riêng cho mẹ mâm không cúng ở đầu hồi (vì biết chị là người theo đạo Chúa), cậu Bảy đặt trước mẹ một đĩa lớn cá đồng dầm mắm gừng. Biết chị thích cá đồng nên năm nào cũng vậy, trước ngày giỗ cậu tát đìa chọn những con cá tràu, cá rô cụ dành riêng cho chị, cậu đứng kế bên săn sóc lúc mẹ dùng bữa, ánh nhìn cậu chan chứa yêu thương. Nhớ về quê ngoại, thằng Ân nhớ một vùng kỷ niệm mênh mang không đầu không cuối…
Và giờ đây nó quay lại với dòng suy tư hiện tại, ngày thằng Ân đã lớn, trốn học về thăm cậu.
Vườn ngoại nó xưa, bây giờ chỉ còn căn nhà nhỏ, nó bước lên cái sân gạch cũ xanh rêu, đứng dưới gốc mai già, nó cất tiếng gọi:
- Cậu ơi!
Có tiếng cựa mình trên chiếc chõng tre, tiếng dép lê loẹt quẹt trên nền nhà, cậu chậm chạp bước ra, tay cậu cầm quạt mo nan phe phẩy. Đưa chiếc quạt nghiêng nghiêng che ánh nắng buổi chiều, nheo nheo đôi mắt già nua cậu kêu lên mừng rỡ:
- Bà ơi! Thằng Ân con cô sáu về đây nề, bà coi bắt mấy con cá tràu tôi tát đìa hôm qua kho cho nó ăn với. Tội nghiệp nắng nôi ri mà cũng lội về thăm cậu.
Thằng Ân bước vô ngôi nhà mái tranh vách đất, cảm giác mát mẻ lạ thường. Dưới gầm bàn, con vện lười biếng vẫy đuôi ra chiều mừng rỡ, đầu gát lên hai chân trước, mắt lim dim ngủ, trên đỉnh bức tường, con mèo muôn kêu meo meo, nó dương đôi mắt xanh màu ngọc thạch láo liên tìm lũ chuột.
Cậu cầm quai chiếc ấm nhôm rót ra bát sứ một bát nước chè xanh đưa cho nó, nói:
- Uống đỡ khát đi con.
Mợ bảy ân cần nhắc nhở:
- Ra sau rửa mặt cho mát đi con.
Thằng Ân xuống bếp ra phía đầu hồi, ở đó có chiếc ảng rêu phong từ thời ngoại nó để lại được đặt dưới giàn hoa lý trắng những bông lấp ló lẫn vào khóm lá xanh rì. Mỗi lần thò cái cán gáo mo cau vào múc nước, thằng Ân nhìn thấy gương mặt nó với khoảng trời xanh dưới đáy ảng vỡ tan ra từng mảng, đổ nước từ gáo ra bàn tay chụm lại, vỗ vỗ lên da mặt nghe thật sảng khoái, cái sảng khoái chỉ ở miền quê mới có được.
Phía cuối khu vườn nơi tiếp̉ giáp mảnh rừng có cái hang nằm dưới tảng đá lớn, cái hang nầy nước chảy quanh năm. Cậu gọi cái hang Cọp, cậu nói lúc cậu còn nhỏ thường nhìn thấy cọp mẹ, cọp con về uống nước ở đây nên gọi là hang Cọp. Thằng Ân nhìn lên lối mòn con đường rừng, lối về nhà ngoại năm xưa, nó nhớ lại thời tóc còn để chỏm níu áo mẹ về đám giỗ ngoại. Nó tưởng tượng ông nó râu tóc bạc phơ, giống ông tiên trong truyện cổ tích. Ông cho nó một đồng xu nhỏ, chỉ một đồng thôi thằng Ân tha hồ ăn kẹo chanh, kẹo ú nhà bà Trại quanh năm. Cái hang cọp gợi cho thằng Ân nhớ lại chuyện buồn ngày còn sống mẹ thường kể cho nó nghe, chuyện nhà cậu Cả.
Cậu cả thằng Ân sinh hạ năm người con, ba trai hai gái, thời chiến tranh chị Tám, chị Chín còn nhỏ, anh cả Sanh đi lính nghĩa quân, anh hai Mậu đi lính thiết vận xa, anh ba Sắc thấp người, tính tình hiền lành, ít nói, theo Việt Minh. Thật đau xót cho cậu tôi, một vai cậu gánh hai giới tuyến.
Ngày xưa mỗi lần giỗ ngoại, các anh hẹn gặp nhau ngoài rừng chỗ phía sau cái hang cọp. Anh cả, anh hai đùm đồ ăn thức uống ra rừng gặp anh ba Sắc, hôm ấy hình như đàm phán điều gì tối quan trọng nhưng bất thành, lúc về ai cũng nhìn thấy đôi mắt đỏ gay trên gương mặt buồn thiu của hai anh nó.
Sau đó ít hôm, hình như năm 72 thì phải. Ừ, đúng rồi mùa hè đỏ lửa 72, cũng vào lúc nhá nhem tối, anh ba Sắc trên đường công vụ đã lọt vào ổ phục kích của đơn vị anh cả. Súng nổ liên hồi làm anh cả tím người ngã lăn ra bất tỉnh. Từ đó huynh đệ đôi ngã biệt ly. Từ đó bên nhà cậu Cả có thêm một cái giỗ. Anh cả Sanh, anh hai Mậu càng ngày càng lầm lì ít nói. Rồi lần lượt anh cả, anh hai trốn lính phiêu bạt, cậu Cả phải trình diện trưởng khu dồn mỗi sáng thứ hai đầu tuần, cho đến ngày giải phóng.
Có tiếng mợ nó gọi:
- Ân ơi vào ăn cơm chiều con.
Nó vào nhà nhìn trên chiếc chõng tre một mâm gỗ cũ kỷ, giữa mâm có chiếc rế, trên đó có cái trả đất nghi ngút khói, mùi lá gừng với tương bánh dầu kho cá tràu xông lên thơm điếc mũi, những khúc cá màu nâu sẫm, xâm xấp nước, một thứ nước sền sệt trông mới ngon lành làm sao. Cậu mợ nó mỗi người một bên, thay nhau bới cơm, gắp cá bỏ vào bát nó như săn sóc đứa con độc nhất đi xa mới về. Thằng Ân nghe lòng cảm động, nước mắt chực trào ra, nó ăn liền một mạch ba bát cơm với cá. Cậu bảy nắm tay nó dắt ra sân, ngồi bên chiếc bàn con dưới gốc mai già, hai cậu cháu uống nước chè xanh.
Mặt trời khuất sau núi Bằng Thùng hắt lên nền trời ráng chiều đỏ rực, lưng chừng núi từng khóm mây trắng lãng đãng ̀ trôi vô định. Đôi mắt cậu buồn xa xăm nhìn ánh chiều tàn rơi trên quê ngoại. Thằng Ân chợt nhận ra hoàng hôn về tắt nắng và cậu hắn cũng đã già nua.
Hắn thấy thương cậu mợ vô bờ!
Chiều Tân Bình nhớ về quê ngoại.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét