Breaking News
Loading...
16 tháng 4, 2018

Chuyện văn

tháng 4 16, 2018
Chắc hẳn các bạn sẽ ngạc nhiên và không khỏi thắc mắc rằng không hiểu tại làm sao thằng người có vẻ bề ngoài trông rất hình sự như tôi mà lại yêu thích văn chương đến là vậy. Bằng chứng là tôi đã mày mò viết nên một quyển sách bé nhỏ và thật khiêm tốn, quê mùa như mùa khoai chà quê ngoại tôi vậy "Nốt trầm quê ngoại" nghe vừa quê vừa buồn phải không ạ. Vâng đúng rồi, phải nói rằng thật bé nhỏ thật khiêm tốn và theo tôi thì cũng thật buồn nữa. Tôi nói trong phạm vi nhỏ bé Việt An đáng yêu của tôi thôi nhé các bạn thân mến.


Thưa các bạn thật ra tôi và chú Ái em tôi đến với văn chương trên chiếc cầu nối có tên ông cụ thân sinh ra chúng tôi, cụ dẫn dắt chúng tôi đến với mảnh đất văn chương vốn đẹp đẽ nhân văn, lắm tiếng cười vui nhưng cũng nhiều tiếng khóc tức tưởi nghẹn ngào này từ khi chúng tôi còn rất bé qua văn hóa nghe và đọc. Ngày ấy chúng tôi đã khóc hồn nhiên khi nghe cụ đọc nhân vật Lý Quỳ cõng mẹ lên Lên Lương Sơn, giữa đường đi tìm nước cho mẹ uống khi đem được nước về thì mẹ đã bị cọp ăn (Thủy Hử) chúng tôi cười vui khi hình dung ra hảo hán Vương Bá Đương dương cung với lời hăm dọa "Nếu ngươi không chạy thì ta bắn giữa bụng ngươi" và địch thủ quay ngựa chạy có cờ với hai mũi tên trên hai cánh tay bị bắn trước đó (Thuyết Đường Diễn Nghĩa)

Chúng tôi kính phục ông Cạc--Nô nào đó ở tuốt tận trời tây khi ông đứng đầu một quốc gia tiến bộ, lúc ông về thăm lại trường xưa làng cũ, ông đi âm thầm chứ không trống dong cờ mở, gặp lại người thầy năm xưa giờ đã già nua vẫn miệt mài cho chữ. Ông ngã mũ kính cẩn thưa "Dạ thưa thầy con là trò Cạc--Nô của thầy ngày xưa đây ạ" bây giờ tôi mới ngộ ra rằng đất nước họ văn minh bởi được lãnh đạo bởi những con người biết tôn sư trọng đạo cách thật tâm chứ không phải như cái ngữ đầu tôm đến khi có cơ hội ăn trên ngồi trốc rồi ngất ngưởng sính lễ nghĩa.


Thưa các bạn xưa ông cụ tôi là nhà giáo thời VNCH. Phải nói rõ hơn là khi đến lớp thì ông là nhà giáo khi về nhà ông là ông chủ nhà sách tại gia. Rất nhiều sách, cơ man nào là sách. Bây giờ tôi như thấy lại hình ảnh cụ tôi ngồi bó gối nước mắt lưng tròng nhìn mấy ông răng đen mắt toét vai khoác súng trường bá đỏ hùng hổ xộc vào nhà khuân hết sách ra vất trên sân gạch rồi phóng hỏa mắt nhìn lửa cháy đầy thù hận. Thật tội nghiệp cái giá sách mà với cụ tôi khối tri thức ấy được ví như Đức mẹ Ma--Ri--A với tín hữu Công Giáo, cụ cùng chị gái tôi lặn lội chở bằng xe đạp từ dưới khu tản cư Hà Lam về quê xa 20cây số có dư trên con đường toàn ổ voi ổ cọp. Cái giá sách ấy nghiễm nhiên chiếm một vị trí quan trọng trong căn nhà nứa gianh nửa mái lều che tạm thuở sau giải phóng. Thuở ấy những tác giả Trung Hoa như Thi Nại Am, Tào Tuyết Cần, La Quán Trung, Kim Dung,. Tư Mã Thiên.v.v.v tác giả Việt như Nguyễn Hiến Lê, Cao văn Luận, Nguyễn văn Bông, Chu Tử, Vũ Mộng Long. V.v.v. phương tây có Victor hugo, Van Gogh, Banlzac, Alexandredumas.v.v.v ngày ấy những tác giả này bị đám trí ngủ bần cố đấu tố tơi bời với những cái tên nghe rất ngụy như "đồi trụy". Từ đó sách chỉ còn tồn tại trong bộ nhớ ông cụ, ông vận dụng trí nhớ để kể chuyện phục vụ bà con lối xóm mà cũng là bảo tồn vốn sống khỏi mai một, cứ tối tối đến là bà con tập trung đến nhà tôi nghe ông kể chuyện như bà Ngọc, bà Phú, cô 9.v v.v. thường khi ra về tôi nghe tiếng các bà các cô hỷ mũi sụt sịt bởi cảm động qua chất giọng truyền cảm ấm áp cụ kể những mẫu chuyện như"Bát cơm chan lệ" chẳng hạn. Chúng tôi nằm cuộn mình trong tấm chăn rách bét mà đôi mắt cay xè.


Nhớ thời trước 75 ở khu tản cư Hà Lam cứ tối đến sau khi học bài, ông bắt anh em tôi lên giường nằm nghe ông đọc truyện trước khi ngủ, ban đầu mỗi tối ông đọc một chương thôi rồi kết thúc bằng câu hỏi "Nghe hay không" rồi chúng tôi chìm vào giấc ngủ mang theo hình ảnh câu chuyện vừa được nghe. Dần dà khi chúng tôi đâm ra nghiện nghe rồi hỏi "Rồi răng nữa ba" thế là ông chỉ lên giá sách nói "Muốn biết lấy xuống đọc thì khắc biết" tôi thích thú đọc mãi mê mỗi khi có điều kiện, từ khi lớn lên mãi đến bây giờ, nhất là sau khi ông cụ qua đời chúng tôi đọc sách kiểm duyệt rồi từ từ mất hứng thú với dòng văn sặc sụa mùi Mác---Lê, nghe khô khan cứng nhắc, gượng ép thế nào ấy. Có đọc được chăng cũng rất hiếm hoi như "Nổi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh, "Chuyện kể năm 2000" của nhà văn Bùi Ngọc Tấn chẳng hạn, nói chung rất ít. Cũng may mà thời đại thông tin bùng nổ, nên có cơ hội lội mãi mê vào rừng văn học không chính thống đến quên cả lối về.


Năm 2013tôi khăn gói quả mướp lên đường đi theo tiếng gọi bản năng, lăn lóc phố phường Hà Nội tôi thực sự có dịp kiểm nghiệm từ lịch sử,văn chương và thực tế đời sống. Tôi rong ruổi khắp kinh kỳ xưa với tâm trạng hoài cổ mông mênh. Tôi đến Văn Miếu Quốc Tử Giám như thấy lại cái tính khí khẳng khái uy nghi của người dâng sớ thất trảm bên cạnh sự đùa giỡn vô phép của giới trẻ Hà Thành đưa tay xoa đầu các cụ rùa đúc.

Tôi đến Hồ Gươm như thấy cảnh thủy binh tập dược vang dội mặt hồ, như thấy Vua Lê cung kính trả gươm thiêng cho rùa thần sau khi quét sạch giặc nhà Minh trên mặt hồ không còn trong xanh mà đã chuyển màu vẫn đục bởi chất thải phố phường với dập dềnh rác rến.

Tôi đến thành Thăng Long vào một buổi chiều mưa giăng với tâm tư đồng cảm cùng bà Huyện Thanh Quan qua tác phẩm "Thăng Long Thành hoài cổ". Và tôi buồn thật nhiều khi nhìn thấy tấm băng rôn kỷ niệm ngày mất của tổng đốc họ Hoàng được treo cẩu thả, lại bị gió giật đức một góc nên rủ xuống như con gà sệ cánh vì bị chó ví dưới trời mưa. Duy chỉ mỗi mình tôi hạng cháu con quê hương cụ đứng nghiêm cẩn nhìn vết phá của đại bác giặc Pháp bắn vào thành tự thuở xưa chừ còn hằn sâu lên cổng thành rêu phong cổ kính. Ôi thật buồn thay.

Tôi bến Chương Dương Độ, địa danh một thời dậy sóng vùi xác quân Nguyên Mông bây giờ chỉ còn trong hoài niệm, những câu thơ đầy hào khí thuở nào hiện về trong tôi rõ nét.

"Cây đa hoa gạo thắm tươi
Chương Dương bến cũ thuyền xuôi ngược dòng
Ngàn thu lừng lẫy chiến công
Quân thù quét sạch non sông vững bền"
Qua mõi mòn năm tháng địa danh xưa danh tướng Trần Quang Khải quắt mắt vung gươm xua quân diệt giặc ngoại xâm bảo tồn lãnh thổ cha ông chừ còn chăng cây đa còm cõi, ngôi đền liêu xiêu buồn tẻ, tất cả gần như đi vào lãng quên. Cái còn đọng lại trong tôi với những ngày mỏi mắt đi tìm dấu vết Tràng An xưa trên phố phường Hà Nội đến tận bây giờ có chăng chỉ mỗi bác Tuấn thợ chữa giày bên lề phố Lương Định Của, vừa làm bác vừa hát khe khẽ khúc hát "Đêm đông" vậy đó là những ghi chép dọc đường gió bụi tôi có nên xem đây như văn chương không nhỉ.


Sài Gòn ngày giáp Tết.
Nguyễn Thiên Ân

0 nhận xét:

Đăng nhận xét