Ngày còn bé, năm 1972, chiến tranh Nam Bắc xảy ra trên quê tôi. Chính quyền Sài Gòn dùng xe nhà binh, máy bay trực thăng di tản dân ra khỏi vùng chiến địa.
Khu định cư Bình Lâm được thành lập, thị trấn Hà Lam và khu định cư cách nhau cái bàu Hà Kiều lúc nào cũng kín những cụm bèo xanh nghít, bình lặng đón bóng ngôi chùa Long Hoa đổ sụp xuống mỗi chiều. Khu định cư quy hoạch theo kiểu phố thị, toàn nhà tôn vách ván, nhưng có đường ngang, ngõ dọc hẳn hoi.
Trẻ con trên quê, nhà cách nhà xa lắc, tối lại chách chách ma kêu nghe buồn hiu. Tất nhiên lũ chúng tôi không thích bằng thị trấn nhà tôn là đúng rồi. Một thị trấn sơ khai với lũ chúng tôi, lũ trẻ quê mới đến cứ tròn xoe mắt thích thú với cái thích thú của nhà thám hiểm phát hiện ra Úc châu. Thay vì ơi gọi nhau tắm sông đến khan cổ, thì ở đây chỉ cần gõ lên vách ván nhà nhau cốc, cốc, cốc. Nghĩa là hẹn ba giờ ra cây cốc. Bên cạnh cây cốc cổ thụ, người ta dựng lên ngôi, không phải ngôi mà gọi cái lều trường cho các kỹ sư i tờ, cũng nhờ cây cốc và cái lều trường mà bây giờ ngồi chép những dòng này tôi mới giật mình không hiểu sao lũ trẻ con lúc ấy có cách nói chuyện đến dễ thương, ví như có ai hỏi “đi mô đó”, thì có hai cách trả lời, nếu đi học thì nói “đi trường Cây Cốc”, còn đi chơi thì nói “đi Cây Cốc trường”. Nếu rủi có hôm không thuộc bài bị thầy Thái cốc đau điếng, buồn hiu, rứa chớ có ai hỏi thì lập tức nói ngay:
- Buồn chi mô có.
Lại nói về cái thị trấn còn trong trứng nước của tôi. Nhà tôi với nhà Dương Anh, Quang Kiệm như ở hai đầu cái gạch nối chữ H cuả khu dân cư, cứ hẹn nhau ra cây cốc chơi kéo xe, cái xe kéo mới lạ lùng, ngộ nghỉnh, bánh sắt, thùng ván lấy từ phế liệu chiến tranh mà anh Ngoạn anh trai Dương Anh làm cho. Những tấm ván ép mới tinh còn thơm mùi nhựa thông thoang thoảng, được ghép lại với nhau như cái thùng con con, đặt lên bốn cái bánh bằng đế sắt đạn pháo binh màu vàng, sáng lấp lánh. Thế là tôi, Dương Anh, Quang Kiệm thay nhau, hai đứa kéo, một đứa ngồi vào xe làm chỉ huy nhà binh thay nhau hò hét suốt chiều.
Ngày ấy thẳng Anh lỏi con đáo để, ỉ i có cái xe chiếm ưu thế nên hắn yêu sách gớm. Ông cụ nhà Quang Kiệm làm ấp trưởng nên Dương Anh biết chắc nhà nó có bánh mì, sữa hộp ( loại thực phẩm phát cho dân tỵ nạn), ông cụ lại hay giải trí đánh cát-tê nên luôn có xu lẻ bỏ đầu giường. Dương Anh ra lệnh:
- Mai Kiệm kiếm ổ bánh, hộp sữa với vài xu khi kéo xe xong mình ăn rồi đi đánh banh bàn. Cu Kiệm nghe như sét đánh ngang tai nhưng cũng không khiếp bằng Dương Anh không cho ngồi xe làm chỉ huy oai vệ. Kiệm mặt nhăn rúm nhưng cũng gật đầu cái rốp. Bụng nghĩ: Thôi không kiệm nữa liều thả cửa bữa có chết ai mô. Cũng chiều hôm đó chơi kéo xe đến tối. Dương Anh nói:
- Nghỉ bay, về ăn tối không thôi ăn roi đó.
Quang Kiệm tiếc của đời nên nài nỉ:
- Chơi thêm chặp nữa chết ai mô.
Đang giằng co thì anh Ngoạn lù lù phía sau phết Dương Anh ba roi miệng thét “chết ai mô, chết ai mô, chết ai mô”.
Thằng Kiệm vừa chạy vừa cười đắt ý.
Hết Kiệm Dương Anh chĩa mũi dùi vào tôi, biết chị hai tôi làm thợ may hay bỏ xu lẻ dưới sổ ghi số đo cho khách nên ra lệnh:
- Mai thằng Thiên Ân kiếm xu đi ăn kem.
Tôi nghe khiếp rêm mình nhưng cũng liều gật đầu cái rốp.
Tội nghiệp bà chị tôi mất của nhưng phải ngậm bồ hòn làm ngọt vì nói ra sợ cụ tôi trị tội con gái mà bất cẩn. Tôi yên chí lớn cứ có lệnh là đến giờ G tôi nhón ngay năm xu có khến chớ không hơn. Lại nghĩ bụng mình lời hơn Kiệm chán.
Cái thị trấn vách ván, mái tôn của lũ chúng tôi nằm trên vòng cung nối hai cây cầu trên cái vòng cung ấy có hàng dừa xanh cứ mỗi chiều về chúng reo vui trong gió. Ở phía cầu Hà Kiều có ngôi nhà cổ xưa của ông Khôi từ đó lên cầu trên này giáp Trại về nguồn, khu định cư Bình Lâm nằm ở giữa. Lũ chúng tôi rất lạ lẫm với những tiếng rao ngọng ngịu của những anh nhóc bán kem, bán bánh:
- Cà-lem-ây-ây (cà rem đây)
- Lao-ây-ây (bánh bao đây)
- Lôm-ây-ây (bánh rôm đây)
Chỉ cần có năm xu có khến là ba ông tướng sở hữu ngay ba cái bánh bao trắng nõn đầu có cái nhủ xanh vàng, hay cái bánh rôm nhẫy mỡ vàng rộm, hay ba que kem cắt hình vuông với hai màu đỏ xanh bắt mắt. Trẻ con nhà quê xuống phố mà cầm cái bánh bao nhìn mặt y hệt địa chủ được mùa, vui thiệt là vui. Vui nhất là bữa chiều cu Kiệm ăn đòn.
Chiều ấy lúc vừa nhá nhem đến phiên Kiệm lên xe làm chỉ huy tay cầm khẩu súng ngắn bằng gốc sắn cù queo. Tôi và Dương Anh cong lưng kéo xe, cu cậu ngồi sau hét toáng lên:
- Tiến lên, tiến lên bần, bần, bần…
Bỗng nghe có tiếng cụ nó hét :
- Bần nề, bần nề, bần nề.
Ông chỉ huy của hai thằng lính khóc thét.
Cũng dạo nầy năm sau, năm bảy lăm lũ chúng tôi nghe bần bần tứ phía, nổ như rang bắp. Nổ bằng súng thiệt chớ không phải bằng súng gốc sắn của thằng Kiệm.
Các cụ lại gồng gánh chúng tôi về lại quê xưa. Lũ chúng tôi bắt đầu lớn lên mặc dầu tuổi đời chưa lớn.
Mãi đến sau này khi thằng Kiệm đã là ông giáo cấp ba, Dương Anh làm sớp-phơ cho quan đầu tỉnh, (ngày bé mỗi lần kéo xe Dương Anh hay nói là làm sớp-phơ) chỉ mỗi tôi luôn là người của sông núi suốt đời lông bông, sáng cuối sông chiều đầu núi, một chiều ngộ tình cờ ba ông gặp lại chén tạc chén thù. Rượu ngà say Quang Kiệm chọt Dương Anh:
- Ông bây giờ đón đưa sếp lớn, đừng dại giở bài làm khó năm xưa ra coi chừng ổng cho ra khỏi cơ quan giữa lúc trời mưa không cho dù đội luôn đó nghe. Chà ướt lạnh chết.
Dương Anh gật gù trả miếng:
- Ông cũng rứa, lớn rồi đừng có làm chỉ huy bắn súng bần bần. Ông cụ bần cho nứt đít khỏi lên lớp đó nghe.
Thằng Kiệm nheo mắt cười trong veo như trẻ lại.
Dương Anh nhìn xuống nhà dưới nói:
- Mình nói khẽ thôi không chị hai Thiên Ân bả nghe bả hỏi tội phổng tay trên thì khốn.
Ba đứa phá ra cười, nụ cười nghe như rất ngày xưa.
Nụ cười ngày xưa
tháng 4 12, 2018
0 nhận xét:
Đăng nhận xét