Đêm qua tôi mơ một giấc mơ thật đẹp, về một người bạn thời còn chung lớp, chung trường tiểu học. Thằng Xuân Thảo, có lẽ tại chúng tôi có với nhau quá nhiều kỉ niệm đáng nhớ, đáng thương một thời thơ dại, nên hành trình kí ức cứ lặp lại trong tôi, kể cả khi thấy ngoài đời sống thực tại có cái gì na ná là lập tức tôi nhớ lại những ngày xưa yêu dấu, ví như chiều qua nhìn thấy lũ trẻ con đá bóng trong sân nhà thờ, thì tôi thấy lại ngay hình ảnh cú ngã bàn đèn huyền thoại của thằng Xuân Thảo hồi chơi đá bóng trong sân nhà nó, cú ngã bàn đèn tuyệt kỹ này có hiệu lực giải tán đội bóng tí hon, bởi vì nó ngã không trúng khung thành mà trúng cây xoài tượng quý giá mà ông cụ nhà nó cất công mang về từ thành phố Hòn Ngọc Viễn Đông với tinh thần" nương như nương trứng, hứng như hứng hoa". Cây xoài quý đã chết tươi dưới tài năng thiên bẩm của thần đồng bóng đá, và ông bà cụ nhà nó mỗi người một roi mây lùa đội bóng oắt tì chúng tôi ra đường quốc lộ ĐT 16.
Cứ như thế, cuộc sống vô tư trôi đi trên dòng đời ồn ỉ, và quá khứ cứ tìm về trong tôi mỗi khi có dịp. Tôi đặt tên cho hiện tượng này cái tên không giống bất cứ một ai, kể cả trong lịch sử văn chương đương đại, khi nói đến kỉ niệm dấu yêu từ trong quá khứ hiện về với thực tại xô bồ: ĐIỆP KHÚC QUÁ KHỨ.
Ừ ! đúng rồi, trong mỗi phiên khúc thực tiễn đời tôi luôn hiện hữu điệp khúc quá khứ, với tôi quá khứ luôn là phiên bản của hôm nay.
Ôi ! quá khứ đời ta vốn nhiều muộn phiền nhưng vẫn đẹp đẽ biết bao, ôi, những ngày lấy kho gạo rệu rã, trống hoang trống hoách, làm nơi đào tạo những ông chủ tương lai của một đất nước đặt trên tiêu chí phồn vinh trước cái kho gạo với tư thế chum hum chực đổ sập bất cứ lúc nào.
Cái ngày các thầy cô tôi như thầy Hường, thầy Mua, cô Tuyết, cô Vân… các thầy cô đã vì đàn em thân yêu hy sinh tất cả, để rồi bước đi trong xiêu đổ bóng chiều tàn.
Ngày quê tôi như một cô nàng ngủ quên bị đánh thức, giật mình choàng tỉnh giấc mới hay ta còn đâu vẻ đài các kiêu sa. Những ngày đang học trong lớp mà nhốn nháo, cứ tưởng chiến tranh đang trở lại, vì ngoài kia bà con la lối om sòm, kẻ cầm gậy người cầm dao, người đánh phèn la xua đuổi thú rừng xuống làng như đang về hang của chúng, từng đàn heo rừng, nai, mang, mểnh chúng chạy ngời ngời như một trang trại chăn nuôi, chiều lại lũ quạ ở đâu mà đông thế, chúng bay đen trời, kêu điếc tai nhức óc, cái ngày mà cứ đến hẹn lại lên, đến giờ văn nghệ thì y như rằng thầy Mua sẽ lặp lại bài Lý quạ kêu:
“Kêu cái mà quạ kêu, kêu cái mà quạ kêu.
Quạ kêu nam đáo, tắc đáo nữ phòng,
Người dưng khác họ, chẳng nọ thời kia.
Nay dìa thì mai ở, ban ngày thời mắc cỡ,
Tối ở quên dìa. Rằng a í a ta dìa,
Lòng thương nhớ thương."
Thằng Xuân Thảo bạn tôi cũng vì quạ kêu mà bị thầy phạt quỳ trên bục giảng đến hết giờ văn nghệ mới được văng xuống lớp. Lúc ấy buổi chiều, trời lại mưa nên trong phòng thiếu ánh sáng, nhìn nó quỳ buồn hiu, không hiểu sao lúc ấy tôi lại liên tưởng đến hình ảnh Mạc Đỉnh Chi với đèn đom đóm, bây giờ nhớ lại tôi tức cười vì những liên tưởng ngồ ngộ ấy. Thằng Xuân Thảo bị quỳ chỉ vì một câu nó nói thật lúc thầy Mua đọc vè con quạ, “quạ kêu chi kêu miết, hết kêu ngoài trời chừ vô phòng kêu luôn", thế là cu cậu dùng đầu gối lau bục giảng cho thầy khỏi lấm chân.
Tôi và thằng Xuân Thảo có rất nhiều kỷ niệm đáng yêu. Như lần đi buôn trầu chẳng hạn, thời ấy đã lớn, thằng Xuân Thảo đã biết yêu, nó yêu một cô nàng thôn nữ nhà nàng ở tít chân đèo Đá Đen, cũng vì cô nàng mà tôi và nó cự cải nhau rân trời trên.
Chuyện là thế này, lúc ấy tôi và thằng Xuân Thảo đi Na Sơn mua trầu về chợ Việt An bán kiếm lời, lúc đi thì đạp xe đạp đi ngã dốc Hầm thì không phải bàn cãi. Nhưng lúc về nó xúi dại tôi cùng nó vác xe lên vai đi qua đèo Đá Đen, chỉ với mục đích gặp cô thôn nữ mà thôi. Con đường mòn dành cho người đi bộ xuyên qua núi rừng rậm rạp hoang vu chớ phải dễ dàng gì cho cam, đường đi rậm ri, có lúc phải chui với rúc chớ phải chơi đâu, thế mà nó bàn tới tán lui riết rồi tôi cũng nhất trí vác xe hành tội bản thân mình. Quả thật các cụ nói chả sai.
" Yêu nhau tam tứ núi cũng leo
Ngũ lục sông cũng lội
Cửu thập đèo cũng qua"
Nó vì yêu thì ráng mà qua chớ mắc mớ chi tôi mà nó rắp tâm hành tội. Hai cha vác xe chui riết một hồi rồi cũng lạc đường, bâng khuâng đứng giữa đôi đường mới chết, thằng Xuân Thảo bạn tôi nó đã lặm tình rồi mà lại còn nặng tính dị đoan nữa, riêng cái dị đoan này hắn khiến tôi mệt muốn chết. Lúc ấy không biết đi hướng nào cho đúng, hắn tuyên bố như thầy phù thủy " để tau làm phép ", rồi hắn trịnh trọng xòe bàn tay ra chu mỏ nhổ một bãi nước bọt vào giữa lòng bàn tay, mắt nó lim dim, miệng lâm râm đọc:
"Cha mi đi cày, mẹ mi đi cấy, mi ở nhà mi có thấy đường đi Thăng Phước ở mô không", rồi hắn mở to mắt dùng ngón trỏ bàn tay còn lại chập thật mạnh vào bãi nước bọt văng tung tóe, có một giọt to văng ra hướng xuống hố, hắn khẳng định đi theo hướng ông thần nước bọt chỉ là chính xác. Tôi đành nuốt cục tức vác xe theo nó, đi xì lỗ tai thì thấy cuối đường là con suối cạn gai góc mọc rậm ri, phải thối ngược lại lối cũ mất cả tiếng đồng hồ, hai ông tướng xẻ mũi thở mới kịp. Tôi tức khí chửi nó: "Con kẹt tau đây, mi toàn xúi tầm bậy, tau mà cọp hắn ăn tau tau cho mi biết tay ", nó nín thinh. Cuối cùng rồi cũng thoát khỏi đèo ma quái, tìm tới được nhà cô nàng thì đói bụng gần chết, cô nàng rất hào phóng bê hẳn ra một rổ khoai lang bốc khói, hai ông sáng mắt no nê, ôi cái tình yêu của thằng bạn tôi mới thật trường tồn bất diệt. Đến khi về giữa đường nó hỏi tôi: "Mi thấy con bồ tau có đẹp không "? Tôi giật mình thành thật: "Ừ tau quên ngó, chỉ lo ngó rổ khoai thôi”.
Đến ngay tận hôm nay giữa đô thành nhộn nhịp, ngồi chép lại những dòng này mà mũi tôi vẫn ngửi thấy mùi thơm của khoai lang trồi sa thơm phưng phức, thấy luôn ánh mắt long lanh của thằng Thảo nhìn âu yếm rổ khoai.
Tình yêu bất diệt
Tình yêu muôn năm
Khoai lang muôn năm.
Điệp khúc quá khứ
tháng 4 05, 2018
0 nhận xét:
Đăng nhận xét